Phép lạ về Giáo hoàng Gioan Phaolô II

Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là một trong những nhân vật lịch sử quan trọng và ảnh hưởng nhất trong thế kỷ XX. Với cuộc đời đầy màu sắc và những đóng góp to lớn cho Giáo hội Công giáo và thế giới, ông đã trở thành một biểu tượng của sự lãnh đạo tôn giáo và nhân đạo. Với tầm nhìn sâu sắc và lòng yêu thương vô bờ, Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã khắc sâu trong trái tim hàng triệu người trên khắp thế giới.

giáo hoàng gioan phaolô ii

Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Tiểu sử Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

giáo hoàng gioan phaolô ii

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, được sinh ra với tên Karol Józef Wojtyła

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, được sinh ra với tên Karol Józef Wojtyła, vào ngày 18 tháng 5 năm 1920, ở thành phố Wadowice, Ba Lan. Ông đã trải qua cuộc sống đầy khó khăn và thử thách từ nhỏ, nhưng những trải nghiệm đó đã giúp ông trở nên mạnh mẽ và nhạy bén về những khó khăn mà con người phải đối mặt.

Xem thêm: Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng

Thời thơ ấu của Đức giáo Hoàng Gioan Phaolô II

giáo hoàng gioan phaolô ii

Karol Józef Wojtyła sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice

Karol Józef Wojtyła sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, một thị trấn nằm ở miền nam Ba Lan, cách Kraków khoảng 50 cây số. Ông là con út trong một gia đình gồm ba anh chị em, với cô chị qua đời từ khi ông còn nhỏ. Cha của ông là Karol Wojtyła, một cựu sĩ quan trong quân đội Habsburg, và mẹ của ông là Emilia Kaczorowska. Mẹ ông là con của một viên chức chính phủ và được cho là đã truyền đạt lòng đạo đức sâu sắc cho ông. Theo lời kể của Giáo hoàng, chính mẹ ông đã “tạo ra món quà tôn giáo kỳ diệu cho gia đình Wojtyła”. Ngay từ khi còn nhỏ, bà đã mong muốn Karol trở thành một tu sĩ và thường nói với hàng xóm rằng: “Lolek (một biệt danh của Karol) của tôi sẽ trở thành một người vĩ đại”.

Trong trường tiểu học dành cho trẻ em trai ở Wadowice, Karol Józef Wojtyła đã tỏ ra là một học sinh xuất sắc. Trong phiếu báo điểm đầu tiên, ông nhận được các điểm “rất tốt” trong môn tôn giáo, hành vẽ, vẽ, hát, trò chơi và thể dục, còn được đánh giá “tốt” trong tất cả các môn học khác. Ông rất thích thể thao và từng đảm nhận vai trò thủ môn cho đội tuyển nhà trường.

Karol được rước lễ lần đầu khi ông 9 tuổi, và lãnh bí tích thêm sức khi ông 17 tuổi. Tuy nhiên, khi ông mới 9 tuổi, mẹ của ông qua đời vào ngày 13 tháng 4 năm 1929. Trên giấy chứng tử của bà, được ghi rõ rằng bà bị suy nhược tim và thận.

Vào tuổi 11, Karol bắt đầu học tại trường trung học dành cho nam sinh ở Wadowice. Trong cùng năm đó, ông trở thành một chú bé phụ lễ và thiết lập một mối quan hệ gần gũi với linh mục Kazimierz Figlewicz. Ngày 5 tháng 12 năm 1932, anh trai của ông, Edmund, qua đời trong quá trình chăm sóc những người mắc bệnh dịch.

Sau này, trong một cuộc trò chuyện hiếm hoi để giãi bày tâm sự, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ với tác giả người Pháp André Frossard rằng: “Cái chết của anh trai tôi có thể đã ảnh hưởng sâu sắc hơn đối với tôi so với cái chết của mẹ, do các hoàn cảnh đặc biệt khác nhau. Điều đó tất nhiên gây đau đớn, và tôi đã phải trưởng thành hơn.”+

Trong giai đoạn này, Karol Wojtyła đã tham gia vào sân khấu. Ông đã đạo diễn nhiều vở kịch được biểu diễn trên sân khấu trường trung học. Những vở kịch này thường mang những thông điệp về tình yêu đất nước. Karol cũng có đam mê khiêu vũ và ông thường khiêu vũ thoải mái với các điệu như pôlône, maduka, van, và tănggô.

Vào cuối thời gian học trung học, Karol đã quen biết với Mieczysław Kotlarczyk, một nhà trí thức và người sáng lập Nhà hát Đại học Nghiệp dư ở Wadowice. Vào ngày 6 tháng 5 năm 1938, Tổng Giám mục Adam Sapieha của Địa phận Kraków đến Wadowice để chủ tọa buổi lễ xác nhận trước khi tốt nghiệp. Ấn tượng bởi Karol, Giám mục đã hỏi ông liệu ông có ý định gia nhập dòng tu không. Tuy nhiên, Karol đã trả lời rằng: “Tôi sẽ nghiên cứu văn học Ba Lan và triết học”.

Sau khi hoàn thành trung học tại Wadowice, Karol Wojtyła được cha mình đưa đến Kraków vào tháng 8 năm 1938, khi ông 18 tuổi. Ông đã ghi danh vào Đại học Kraków, theo chân anh trai của mình, Edmund. Karol nhanh chóng thích nghi với chương trình học nặng tại trường đại học, bao gồm các môn như từ vựng và ngữ âm Ba Lan, Văn học trung cổ Ba Lan, Kịch Ba Lan thế kỷ XVIII và thi ca đương đại. Ông trở thành một sinh viên xuất sắc trong lĩnh vực triết học và văn chương, và đồng thời theo học thêm ngành kịch nghệ.

Wojtyła nhanh chóng kết bạn với một loạt các thi sĩ và nhà viết kịch. Ông thường ghé thăm ngôi nhà của gia đình Szkoci, một gia đình âm nhạc tài năng, để giao lưu và thảo luận với họ.

Đức Giáo Hoàng Phaolô II, hay Karol Wojtyła, thực sự đã tham gia huấn luyện quân sự ở Hermanice vào năm 1935 và vào tháng 7 năm 1939, các sinh viên Ba Lan và Ukraine đã phải tham gia trung tâm huấn luyện quân sự ở Ozomla, gần Sadowa Wiszna. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, khi Đức tấn công Ba Lan, ông và cha mình quyết định rời khỏi Kraków. Họ đi bộ về phía đông đến vùng núi Tarnobrzeg, cách Kraków khoảng 120 dặm, nhưng sau đó nhận được tin tức về sự chuẩn bị của Nga để xâm nhập phía đông Ba Lan, nên hai cha con quyết định quay trở lại Kraków.

Vào mùa Đông năm 1939, ông được mời tham gia tổ chức Living Rosary bởi Tyranowski, một tổ chức tôn giáo hoạt động một cách bí mật. Wojtyła gặp Tyranowski mỗi tuần một lần và dưới sự chỉ đạo của ông, ông tham gia vào những thực hành huyền bí. Điều này giúp ông học cách điều chỉnh cuộc sống hàng ngày cho công việc cũng như hoạt động tôn giáo của mình. Phong cách làm việc này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến ông sau này. Trong thời gian đó, ông cũng viết ba vở kịch: David, Job và Jeremiah, bày tỏ những suy nghĩ về tính huyền bí của sự hi sinh và khát khao giải phóng dân tộc mới.

Vào tháng 10 năm 1940, Karol Wojtyła (sau này trở thành Đức Giáo Hoàng Phaolô II) đã bắt đầu làm việc lao động chân tay trong một nhà máy hóa chất tại Solvay, ngoại ô Kraków. Điều này là do sự đe dọa từ chính quyền Đức rằng những người không có việc làm thường xuyên có nguy cơ bị đưa sang Đức. Dù công việc lao động này nặng nhọc, ông đã tích lũy được những kinh nghiệm quan trọng và học được những quan điểm và thái độ liên quan đến phong trào công nhân và nhân dân lao động.

Mặc dù ông có thể kiếm được một công việc văn phòng nhẹ nhàng hơn, ông đã từ chối để đảm bảo an toàn và không thu hút sự chú ý. Ông chỉ phải làm việc lao động nặng trong vài tháng trước khi chuyển sang công việc nhẹ nhàng hơn. Những trải nghiệm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm và thái độ của ông đối với phong trào công nhân và lao động trong tương lai.

Vào ngày 18 tháng 2 năm 1941, cha của ông Wojtyła qua đời sau một cơn ốm nặng. Sau khi tổ chức những nghi lễ cuối cùng cho người đã qua đời, ông đã thức suốt đêm để canh thi hài của cha và suy nghĩ về tương lai và sự nghiệp của mình. Trong cuộc trò chuyện với tác giả André Frossard, ông đã nói: “Ở tuổi 20, tôi đã mất tất cả những người mà tôi yêu quý, và thậm chí cả những người mà tôi có thể đã yêu quý”.

Vào đầu năm 1941, theo giới thiệu của một giáo sư tiếng Pháp trước đây của ông, ông đã nhận được công việc kế toán tại một mỏ đá và theo dõi việc sử dụng chất nổ để phá đá từ các quản đốc tại Solvay.

khi còn nhỏ, Đức Giáo Hoàng Phaolô II (Karol Józef Wojtyła) đã tiếp xúc nhiều lần với nhóm người Do Thái tại Kraków. Trong thời kỳ Ba Lan bị chiếm đóng bởi Đức Quốc xã trong Thế chiến II, nhiều bạn bè Do Thái của ông đã bị giết hoặc bị trục xuất. Tuy nhiên, thái độ của ông đối với những hành động này là “cầu nguyện”. Ông đã nói: “Hãy nhớ rằng, chúng ta có nhiệm vụ cầu nguyện cho họ, xin Chúa ban cho họ sức mạnh để chịu đựng tất cả những điều này” [37]. Ông không bao giờ tham gia vào bất kỳ hoạt động kháng cự chống lại Đức Quốc xã hoặc tham gia vào những hoạt động nhằm giải cứu người Do Thái.

Thái độ của Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong tình huống này phản ánh niềm tin tôn giáo sâu sắc của ông và ý thức về tầm quan trọng của cầu nguyện trong giai đoạn khó khăn. Ông coi việc cầu nguyện là một phản ứng tâm linh quan trọng và cách duy nhất để giúp đỡ những người gặp khó khăn.

Trong những khoảnh khắc rảnh rỗi, Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã dành thời gian say mê điện ảnh và nghệ thuật diễn xuất. Cùng với nhóm bạn của mình, bao gồm Mieczyslaw Katlarczyk, ông đã sáng lập nhà hát Rhapsodic, một sân khấu nhỏ tự do. Đây là tiền thân của đoàn kịch nghệ quốc gia Ba Lan.

Tuy nhiên, hoạt động của nhà hát Rhapsodic phải diễn ra một cách bí mật và tiếp tục trước ánh mắt của quân đội Đức Quốc xã, vì nếu bị phát hiện, họ có thể bị giết hoặc trục xuất. Tuy nguy hiểm như vậy, trong khoảng thời gian từ 1941 đến 1945, nhà hát đã biểu diễn thành công 22 vở kịch, và Karol Wojtyła đã tỏ ra là một diễn viên xuất sắc.

Sở thích và hoạt động nghệ thuật này đã thể hiện sự sáng tạo và khả năng thích nghi của Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong môi trường khó khăn và nguy hiểm của thời kỳ chiến tranh.

Con đường trở thành Tu sĩ

Sau khi cha ông qua đời vào năm 1941, Karol Wojtyła đã dành thời gian để tìm hiểu sâu hơn về sự huyền bí và triết học. Tại nhà của người bạn Kydrynskis, nơi ông ở trong sáu tháng, người ta thường thấy ông nằm trên sàn nhà, tay dang ngang như hình thánh giá, cầu nguyện. Đây là một dấu hiệu của sự tôn kính và sự kết nối sâu sắc của ông với đức tin.

Vào mùa thu năm 1942, sau một cuộc thảo luận dài với cha giải tội Figlewicz, Karol Wojtyła đã đến thăm nhà riêng của Tổng Giám mục Sapieha và trình bày mong muốn của mình trở thành một tu sĩ dưới sự hướng dẫn của Giám mục. Trước đó, ông cũng đã đến tu viện khổ hạnh dòng Carmeline ở Czerna với hy vọng được nhập môn vào đó, nhưng tu viện này đã bị chính quyền Đức Quốc xã đóng cửa. Mặc dù những người bạn cố gắng thuyết phục ông không rời bỏ sự nghiệp sân khấu, nhưng ông quyết định đi theo con đường mà ông đã chọn – con đường tu sĩ để dâng hiến cuộc đời mình cho phục vụ Chúa.

Ông bắt đầu lén lút học những môn của Chủng viện Kraków, do Hồng Y Adam Stefan Sapieha, lúc đó là Tổng Giám mục Kraków, điều khiển. Mỗi người được trao cho một vị giáo sư. Các lớp học được tổ chức ở nhà tu, nhà thờ và ở nhà riêng. Những chủng sinh này được yêu cầu không để những người quen biết về việc học tập của họ và bản thân những người này vẫn duy trì một nếp sống bên ngoài như bình thường. Trong thời gian này, ông đã đọc cuốn: Luận về sự hiến dâng hoàn toàn cho Đức mẹ đồng trinh của St Louis Grignion de Montfort, Lý thuyết tự nhiên của Kazimierz Wars. Ngày 6 tháng 8 năm 1944, “Ngày Chủ Nhật đen” hơn 8000 người đàn ông và các cậu bé đã bị quân đội phát xít bắt giam, rất may mắn Wojtyla đã không nằm trong số đó. Sau sự kiện này, ông vào ẩn trú trong dinh tổng Giám mục và không tiếp tục làm việc tại Solvay nữa. Ngày 13 tháng 11, ông chịu lễ xuống tóc – một nghi lễ từ thời trung cổ để biểu tượng hóa sự khuất phục trước Chúa.

Sau khi không thể gia nhập tu viện Czerna trong một lần đệ đơn, Karol Wojtyła đã thử lại vào năm 1948, nhưng lần này ông vẫn bị Tổng Giám mục Sapieha từ chối. Việc bị từ chối hai lần gia nhập dòng Carmelite đã đặt ra một thử thách cho Karol Wojtyła và đã thúc đẩy ông tìm kiếm những con đường khác để thực hiện ý nguyện tu sĩ của mình.

Con đường trở thành Linh mục

Sau khi được thụ phong linh mục, Karol Wojtyła đã được Hồng y Sapieha gửi đi du học tại Đại học Angelicum ở Roma. Tại đây, ông hoàn thành luận án tiến sĩ thần học với đề tài về Đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá vào năm 1948. Trong các kỳ nghỉ hè, ông đã thực hiện mục vụ cho cộng đồng người Ba Lan di dân sống tại Pháp, Hà Lan và Bỉ. Điều này cho phép ông tiếp xúc và phục vụ những người di dân và học được nhiều về cuộc sống và tình hình của họ.

Sau khi hoàn thành học trình tiến sĩ tại Roma, Karol Wojtyła được bổ nhiệm làm linh mục phụ tá tại giáo xứ Niegowic, một vùng quê xa xôi thuộc Galicia, cách Kraków khoảng 30 dặm. Trong vai trò này, ông bắt đầu ngày mới bằng việc thức dậy sớm lúc 5 giờ, dâng Thánh Lễ, và sau đó di chuyển xung quanh các khu vực trong giáo xứ, hướng dẫn giáo lý cho trẻ em và cử hành Thánh Lễ tại các khu xóm. Sau đó, ông trở về nhà xứ để ăn trưa, tiếp đón khách hoặc đi thăm viếng giáo dân. Trong những buổi chiều hoặc cuối tuần rảnh rỗi, ông thường tự mình tham gia vào công việc lao động trong nhà cùng với giáo dân địa phương.

Trong thời gian làm phó xứ tại Niegowic, Linh mục Wojtyła đặc biệt chú trọng đến công việc với giới trẻ. Ông dành nhiều thời gian để hướng dẫn họ biểu diễn trên sân khấu, giúp họ mở rộng kiến thức và kỹ năng. Ông cũng tổ chức những buổi cắm trại trong rừng hoặc các chuyến du ngoạn trong khu vực lân cận thuộc giáo phận Kraków. Đồng thời, ông thành lập các đội bóng chuyền và bóng đá cho thanh thiếu niên trong khu vực, nhằm tạo điều kiện cho các hoạt động thể thao và giải trí lành mạnh cho giới trẻ.

Sau khi được chuyển đến làm việc tại một trường của Đại học Kraków trong giáo xứ Saint Florian vào tháng 3 năm 1949, Linh mục Wojtyła tiếp tục nghiên cứu triết học và thần học tại Đại học Công giáo Lublin. Tại đây, ông có cơ hội tiếp xúc và tìm hiểu thêm về giới trẻ, đồng thời phát triển phương pháp mục vụ trong khi tiếp cận đời sống văn hóa và gặp gỡ với các nhà văn và triết gia tại tổng giáo phận Kraków. Nơi đây cũng cung cấp cho Linh mục Wojtyła cơ hội để phát triển kiến thức về văn chương và triết học của mình.

Linh mục Wojtyła thường tổ chức các hoạt động ngoại khóa như cắm trại và du ngoạn ngoài trời cho sinh viên, giúp họ hòa mình vào thiên nhiên và có những trải nghiệm gần gũi với tạo hóa. Nhờ những hoạt động này và sự giao lưu với giới sinh viên tại Saint Florian, sau khi được bổ nhiệm làm Giám mục Phụ Tá Giáo phận Kraków, Linh mục Wojtyła đã hoàn tất các tác phẩm của mình về mối quan hệ giới tính theo tinh thần Kitô giáo, trong đó có “The Jeweler’s Shop” (Tiệm Nữ Trang) và “Love And Responsibility” (Tình Yêu Và Trách Nhiệm).

Vào năm 1953, ông đã trình bày một luận án với đề tài “Thẩm định khả thể xây dựng nền luân lý Công giáo trên hệ thống luân lý của Max Scheler” tại Đại học Lublin. Sau đó, ông trở thành giáo sư thần học luân lý và luân lý xã hội tại Đại chủng viện Kraków và tại phân khoa thần học của Đại học Công giáo Lublin.

Vào tháng 10 năm 1954, phân khoa Thần học tại Đại học Jagiellonian, nơi ông đang giảng dạy môn luân lý Kitô giáo, đã bị đóng cửa. Trong thời gian này, Linh mục Karol Wojtyła thường họp mặt bí mật với một nhóm giáo sư khác để trao đổi quan điểm về mối quan hệ giữa nhà nước và Giáo hội.

Con đường trở thành Giám mục

Vào ngày 4 tháng 7 năm 1958, Linh mục Karol Wojtyła được Giáo hoàng Pius XII bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá giáo phận Kraków. Ngay sau khi nhận được đề cử này từ Hồng y Wyszynski, ông đã đến tu viện của các nữ tu Ursuline và dành 8 tiếng đồng hồ để cầu nguyện liên tục trước khi rời khỏi tu viện.

Sau đó, vào ngày 28 tháng 9 năm 1958, ông đã được tấn phong làm Giám mục tại Nhà thờ lớn Wawel ở Kraków, chỉ cách đó 11 ngày trước khi Giáo hoàng Pius XII qua đời. Một tháng sau đó, Giáo hoàng John XXIII lên ngôi, khởi đầu một kỷ nguyên mới cho Giáo hội Công giáo với việc triệu tập Hội nghị Vatican II. Với tư cách là một Giám mục mới chỉ 38 tuổi, ông nhận được giấy mời tham dự Hội nghị Vatican II.

Trong Công đồng Vatican II, Giám mục Karol Wojtyła đã có đóng góp tích cực và ấn tượng. Ông tham gia với bảy diễn thuyết trước các nghị phụ và đóng vai trò quan trọng trong việc soạn thảo các tài liệu quan trọng của Hội nghị. Đặc biệt, ông đã gây ấn tượng sâu sắc đối với Giáo hoàng John XXIII và sau đó với Giáo hoàng Paul VI.

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1963, Giáo hoàng Paul VI đã bổ nhiệm ông làm Tổng Giám mục Kraków. Trong vai trò này, ông tiếp tục tham gia vào Công đồng Vatican II và đóng góp vào việc soạn thảo các văn bản quan trọng như Tuyên ngôn về tự do tôn giáo (Dignitatis Humanae) và Hiến chế Mục Vụ Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes). Cả hai văn bản này đều có tính lịch sử và quan trọng đối với Công đồng Vatican II.

Trong thời gian đó, Giám mục Wojtyła đã có những tương tác và thảo luận với Giáo hoàng Paul VI. Vào tháng 5 năm 1964, ông đã đệ trình một văn bản do các Giám mục Ba Lan soạn thảo, tuyên bố rằng mối quan hệ của Giáo hội với thế giới hiện đại phải dựa trên sự nhận thức rằng Giáo hội là một xã hội hoàn thiện do Chúa sáng lập và đứng trên lịch sử. Sau đó, vào ngày 30 tháng 11 năm 1964, ông có cuộc trò chuyện riêng đầu tiên với Giáo hoàng Paul VI, người đã theo dõi chặt chẽ những phát biểu của Giám mục mới này.
Shopping cart
error: Content is protected !!
Contact Me on Zalo
0981 934 979